Thông báo
Địa chỉ WEB hiện tại của Tiên Vực là https://tienvuc.info. Trong trường hợp không thể truy cập được, bạn hãy vào https://tienvuc.link để xem địa chỉ mới nhất và tải ứng dụng.
Sáng sớm hôm sau, tuyết phủ kín ngàn phố trăm phường. Trường An nguy nga như một cự thú nằm dài trên biển tuyết; những con đường thông ra ngũ hồ tứ hải tựa lớp lông trên mình nó, nối liền mọi ngóc ngách của cõi vạn dặm.
Còn chừng một tháng nữa là hết năm. Tùng Ngọc Phù ôm xấp sách bước ra khỏi Văn Khúc Uyển, ngẩng đầu nhìn màn tuyết rơi trắng trời.
Sắp cuối năm, ít ngày nữa tới Hội thơ Long Ngâm. Cha nàng – Tùng Bách Thanh – ắt phải xuất hiện. Chỉ là ông luôn chê: “Văn nhân đem thơ từ ra phô diễn như vũ phu múa rìu, chỉ dưỡng tính chứ khó trị quốc,” nên những việc lặt vặt ở hội đều giao cho nàng lo liệu.
Là phận nữ nhi, lại chẳng thể ra làm quan, Tùng Ngọc Phù thật ra cũng chẳng vướng bận chuyện “thơ là tiểu tài, trị thế mới là đại tài”. Được nhìn mấy bài thơ hay là nàng đã thấy mãn ý. Nhưng mấy hôm nay nàng cứ bâng khuâng, không biết có phải vì… Hứa thế tử.
Hứa Bất Lệnh tới Trường An đã một năm, rất ít khi đến Quốc Tử Giám; có đến cũng lặng lẽ đứng trên Chung Cổ Lâu. Trước kia nàng chỉ thoáng gặp, hầu như chẳng tiếp xúc mấy.
Vậy mà bữa nọ, hắn đứng ra che cho lang vệ, dạy cho Tiêu Đình một bài vì ánh mắt vô lễ. Từ đó nàng sinh chút tò mò về vị thế tử phiên vương cao cao tại thượng này.
Rõ ràng là người trầm tĩnh, biết lẽ phải, cớ sao cứ thích trưng ra vẻ ngang ngược trước mặt người ta? Ép nàng chép bài, bế bổng hù dọa… Có lẽ do nàng nói nhiều khiến hắn khó chịu. Mà nghĩ kỹ, mấy hôm gần đây tiếp xúc, hắn… cũng chẳng đến nỗi dữ dằn.
Nghĩ ngợi miên man, nàng giơ tay đón mấy bông tuyết, lòng cũng ngưa ngứa khó tả.
Ngẩng nhìn Chung Cổ Lâu giữa khuôn viên Quốc Tử Giám, do dự chốc lát rồi nàng thướt tha bước tới. Biết thừa nếu gặp, Hứa thế tử thế nào cũng bắt chép bài, nhưng nàng vẫn muốn hiểu hắn là người thế nào. “Thì chép, chép vậy.”
Chung Cổ Lâu là nơi trang nghiêm, Bất Vong Chung trên tháp nhắc nhớ bách tính về trăm năm nhẫn nhục. Bình thường vắng người, tĩnh lặng lạ thường.
Tới gần căn buồng dưới chân lầu, Tùng Ngọc Phù còn đang nghĩ có nên chào một tiếng không, chào thế nào cho phải, thì trong phòng đã vang lên tiếng đối thoại:
“Ngươi mua cái thứ thơ rách gì thế? Vài hôm nữa là tới Hội thơ Long Ngâm rồi.”
“Tiểu vương gia, văn chương vốn là thiên tính, hứng tới thì viết, hà tất câu nệ.”
Tùng Ngọc Phù khựng lại, đứng chết trân. Mắt thoáng hiện nét kinh ngạc.
Con cháu quyền quý mua thơ về làm điệu bộ là chuyện quá đỗi thường tình – hơn nửa đám công tử, tiểu thư trong Văn Khúc Uyển đều từng làm. Không phải tội tày trời, nhưng văn nhân chính thống vốn khinh chuyện ấy.
Nàng không ngờ Hứa thế tử – người quyền cao, bặt khỏi khói bụi danh lợi – cũng làm điều này. Thế tử Túc Vương là trời sinh kiêu tử, cần chi thứ hư danh văn nhã ấy, sao phải hạ mình “học đòi văn vẻ”?
Ánh mắt nàng thoáng một nét thất vọng khó thấy. Nàng nghĩ ngợi rồi quyết không tiện can gián, toan lặng lẽ quay đi. Nào ngờ câu nói tiếp theo trong phòng khiến nàng sững sờ.
…
Cửa sổ buồng nhỏ dưới Chung Cổ Lâu khép chặt.
Hứa Bất Lệnh ngồi ngay ngắn trước án thư, tay cầm một chồng bản thảo thơ. Lão Tiêu chống gậy đứng đối diện góp ý, vừa lắc đầu vừa thở dài.
“Tiểu vương gia, văn nhân ai nấy đều ngạo. Bán thơ lấy bạc là việc chẳng vinh. Kẻ dám bán thơ chẳng có mấy, mà không quen thì họ cũng không bán. Ta đã dò dẫm cả nửa ngày, tốn không ít bạc mới ra được đường.”
Hứa Bất Lệnh nhíu mày, nhìn chồng bản thảo dày cộp mà phát rầu.
Con cháu nhà giàu mua thơ là để khoe mẽ, không phải để tự rước nhục. Người bán thơ cũng rành tâm lý người mua: câu chữ thường vừa phải, chẳng hay xuất chúng, cũng không đến nỗi dở tệ – đọc xong là quên, khó bắt bẻ mua hay không mua.
Muốn mang tiếng “trộm thơ”, bài trước hết không được quá xoàng – hèn kém thì chẳng ai buồn để mắt, dẫu bị lộ cũng chẳng ai thèm nói. Nhớ lời dặn của Lục phu nhân, Hứa Bất Lệnh đau đầu, gạt xấp bản thảo qua một bên.
“Không kiếm được thứ cho ra hồn à? Loại ‘một bài át cả Trường An’ ấy.”
Lão Tiêu xoa đầu gậy, trợn mắt: “Đã ‘át Trường An’ thì ai đi bán? Hay là ngài tự viết mấy bài?”
Hứa Bất Lệnh nghĩ rồi gật đầu. Lão Tiêu năm xưa cõng hắn băng núi vượt sông máu, chẳng có gì phải giấu. Hắn mài mực đề bút, viết mấy câu trên giấy Tuyên Thành.
Lão Tiêu biết sau đại bệnh trí nhớ Hứa Bất Lệnh không còn lanh lợi, chưa từng thấy hắn làm thơ, bèn thò cổ đọc theo nét bút:
“‘Lúc say đốt đèn xem kiếm, nằm mơ thổi kèn trận tiền.
Việc lớn của quân vương đã xong, còn mong để tiếng với đời sau…’
Không được, không được.”
Hứa Bất Lệnh sững lại: “Vì sao không được? Ta mới mười tám, rõ ràng không thể viết ra kiểu cảm hoài này.”
“Nhưng người ta sẽ nghĩ ngài nhớ công Hứa lão tướng quân. Vậy thì đây là tâm tình thật, chứ chẳng phải ‘trộm’.”
Hắn chau mày; quả là sơ suất. Nghĩ một lát, lại viết:
“‘Cây khô quạ đậu chiều sương,
Cầu nhỏ nước chảy bên làng người ta.
Đường xưa gió táp ngựa gầy,
Nắng tà rũ xuống—kẻ xa nhà đoạn trường.’”
Viết xong, hắn chép miệng: “Bài này chắc ổn? Ta đường đường là thế tử, sao đến nỗi thê thảm như vậy được.”
Lão Tiêu ngắm nghía rồi thở dài: “Năm ngoái ở bến Vị, ta cõng ngài trốn chui trốn lủi về Trường An. Cảnh ấy… y như trong thơ.”
Hứa Bất Lệnh lần đầu nếm cái khó của thi từ. Nghĩ mãi không ra, hắn lại viết:
“‘Mười năm sinh tử mịt mùng,
Chẳng dám nghĩ, nghĩ là đau.
Mộ phần nghìn dặm quạnh hiu,
Thầm than chẳng nói được câu nào…’”
Lão Tiêu nhìn dòng chữ, mắt thoáng u buồn, khẽ vỗ vai hắn: “Vương phi mười năm trước vì ‘Thiết ưng săn nai’ mà uất mà mất. Vương gia canh cánh đến giờ. Không ngờ tiểu vương gia cũng thấu…”
“Bộp!” Hứa Bất Lệnh quăng bút: “Cái này ta chép! Đến ngươi còn tin là ta viết, thì làm sao lừa đám văn sĩ kia mà mang tiếng ‘trộm thơ’ được!”
Lão Tiêu khẽ thở dài. Trong mắt ông, lại ánh lên niềm vui mừng như thấy thiếu niên ngày nào rốt cuộc cũng hóa thành một nam tử có thể gánh vác.
Hứa Bất Lệnh im lặng giây lát, rồi cầm bút viết nữa:
“‘Gió lùa, hương phấn đã tan,
Chiều phai, mệt mỏi chải đầu.
Cảnh còn người đã vắng đâu,
Muốn lời—lệ đã tuôn đầu bút rơi.’”
Mắt Lão Tiêu sáng lên, ghé sát xem kỹ: “Ừm… Bài này không giống tay đàn ông. Nghe đã biết nỗi niềm một người đàn bà lẻ loi dãi dầu sương gió. Người thường khó lòng viết ra.”
“Vậy lấy bài này. Ta không tin họ lại không nhận ra là ‘chép’.”
…
Ngoài cửa, mắt hạnh của Tùng Ngọc Phù trợn tròn. Nàng lấy tay che miệng, như vừa phát hiện kho báu; trong mắt tràn ngập rung động.
Trời ơi…
Tiện tay mà hóa thành thơ, phong cách biến ảo. Khi thì khí phách lão tướng sa trường, lúc lại là lãng tử cơ hàn; khi chan chứa bi cảm văn nhân, khi hóa nỗi oán thán nơi phòng khuê. Các vai đổi thay không một mối hở, như đều do chính mình từng nếm trải—không chê vào đâu được.
Bản lĩnh như thế… chẳng phải thiên tài ư!
Hàng mi của Tùng Ngọc Phù khẽ run. Nàng muốn lao vào ngay để xem hết những bài kia. Nhưng vừa nghĩ đã dừng.
Nghe câu đối thoại, rõ ràng Hứa thế tử không muốn nổi danh, còn cố ý gánh tiếng xấu “trộm thơ”. Tuy nàng chưa hiểu dụng ý của hắn, nhưng Hứa thế tử có thực sự “trộm” hay không—nàng nhìn là rõ.
Sinh trong cửa nhà nho, phụ huynh đều là đại học sĩ, nàng sao nỡ để người thật sự có tài lại ôm tiếng xấu?
Giờ mà bước vào, để hắn biết nàng nghe lén, thể nào hắn cũng bỏ thi hội.
Vậy thì…
Đôi mắt Tùng Ngọc Phù khép hờ, trong ánh nhìn long lanh thoáng hiện nét giảo hoạt.